Có hay không, một bản sắc văn hóa xuồng, ghe Nam Bộ? Chỉ biết rằng, bao đời nay, với người dân miền Tây, xuồng, ghe, không chỉ là công cụ đi lại, mà còn là phương tiện mưu sinh…
Nam Bộ là xứ sở của sông nước bát ngát, rạch, ngòi nhằng nhịt, ba bề lộng gió biển khơi. Mùa nước nổi, dân Ðồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre… dùng xuồng, ghe làm nơi hàm, vừa là nhà ở, công cụ tránh lũ và kiếm sống. Giữa đồng nước dâng tràn, chiếc xuồng trở nên đa năng: Người thì giăng câu, kẻ bẻ bông điên điển chở ra chợ bán đổi gạo, mắm, tương, cà.
Xuồng còn tải lúa gạo, xăng dầu, thuốc men, thực phẩm… đến tận hang cùng ngõ hẻm, bàn thảo bán sỉ, khổ thì có khổ mà vui thì rất vui.
Ðêm trăng rắc bạc trên sóng nước, năm ba chiếc xuồng, ghe cụm lại dập dềnh, vừa nhâm nhi ly rượu nếp đặc sản miền Tây, vừa hàn ôn chuyện làm ăn rồi đổ dài câu vọng cổ, hỏi có gì hạnh phúc cho bằng?
Có ai đếm xuể có bao nhiêu gia đình, bao nhiêu con người sinh sống trên những con thuyền khắp sông rạch miền Tây? Từ người sung túc cả chục con tàu chở khách, chở gạo, cát đá, gạch ngói, xi-măng, sắt thép buôn bán trăm miền, đến anh câu tôm, chài tép, cào hến, bắt nghêu, đóng đáy, chị rao bán cá linh, trái cây và em gái đưa đò…
Cảnh ghe, xuồng nhộn nhịp trên bến dưới thuyền miền quê nào cũng có, song có lẽ chẳng đâu vào đâu qua được những “chợ nổi” ngã bảy Phụng Hiệp (Cần Thơ), ngã năm Thạnh Trị (Sóc Trăng), Tắc Thủ (Cà Mau).
Chợ nổi càng về đêm càng náo nhiệt, hàng hóa không thiếu thứ gì, song nhiều nhất vẫn là nông phẩm thực phẩm.
Dưới ánh đèn đủ sắc bập bềnh trên sóng nước, hoặc dưới nắng sớm rạng đông, những thuyền trái cây thật trẻ ranh muôn mầu. Cũng tiếng chào hàng nồng hậu, tiếng máy nổ xập xình, tiếng heo, gà vịt kêu réo điếc tai, cũng đủ các loại hàng hóa công nghệ cao cấp.
Chỉ khác các cửa hàng trên bộ, bởi ít thấy những biển quảng cáo, biển hiệu,… mà từng ghe, xuồng mở trần mui bày bán đủ đồ, hoặc chỉ cần một cây cột ngắn trên đó mắc đủ thứ hàng mẫu thế là khách mua biết ngay, không cần phải lăng xê rùm beng.
Hình ảnh quen thuộc gắn với chiếc xuồng, với sông nước Nam Bộ là những thiếu nữ mặc áo bà ba, đội nón lá khua nhẹ mái dầm đâu đó cất lên giọng hò ngọt ngào và thiết tha, cái thú đó không nơi nào có được. Du thuyền trên sông nước miền Tây còn có cái thú để ta suy ngẫm về một vùng đất nước. Ở đây đang hằng ngày đổi thay. Cái mới, cái cũ cũng từng ngày diễn ra…
Bắt đầu từ nơi rừng gặp biển của đất mũi Cà Mau. Biển vẫn còn đó, nhưng rừng bây chừ lại kém bạt ngàn.
Vốn được coi là Amazon của Việt Nam, bơi thuyền trong rừng đước là thú vui của không sao người. Rừng ngập mặn Cà Mau từng che lính, vây kẻ thù. Chả vậy mà giặc Mỹ thả xuống đây không biết cơ man nè bom đạn, thuốc hóa học triệt mầu xanh mà “đước vẫn mọc thành rừng gỗ cứng” để con tôm ôm cây đước…
Giờ đây sao con người nỡ hủy hoại nơi thủy tổ của các loài tôm cá, nơi đã từng cưu mang con người bao cơn gian nguy hoạn nạn? Kìa những đoàn thuyền đang xuôi dòng. Không ít trong số thuyền chở đầy than đước, gỗ đước, dù cố ý hay vô tình thì cũng trở thành “đồng phạm” tiếp tay cho kẻ phá rừng…
Sông Cà Mau, Năm Căn, Bảy Háp, Bồ Ðề… sao còn được như giọng hò: “Bao giờ hết đước Năm Căn, Ông Trang hết cá, Viên An hết rừng?”.
Xã Khánh Lân, Khánh Hội, Khánh Hòa kể cả Nguyễn Phích cách thị trấn năm, mười cây số mà cách biệt bóng gió.
Học sinh trung học ra thị trấn trọ học đều có nhà riêng. Ðồng chí Chủ tịch xã Khánh Hòa nói rằng: Trường trung học ngoài thị trấn chừa một khoảng đất trống để ba má Học sinh vùng sâu, vùng xa cất nhà cho con ở “nội trú”, tự lo ăn uống học hành.
Dọc đoạn đầu nguồn sông Cái Tàu, từ Nguyễn Phích vào thị trấn U Minh, tiếng nhạc cải lương từ các ngôi nhà dừa nước vang xa những bài hát về mối tình u ám. 34 căn nhà chưa có căn nhà nào xứng với tên gọi, nhưng cũng có tới 21 cần ăng-ten ti-vi, vơ là ti-vi đen trắng.
Ông già Tư ở đầu kênh nói giọng khôi hài: “Không phải vì thiếu tiền mà vì không có điện, nên chúng tôi chỉ xài ti-vi đen trắng”. Ở đây bà con mê cải lương đến nỗi canh từng giờ để mở đài nghe cải lương, xem tắt đài từng phút khi lăng xê để tiết kiệm điện ắc-quy.
Anh cán bộ thông tin xã kề tai tôi bảo nhỏ: “Người dân vùng sâu U Minh hiện không còn cái đói cơm gạo đe dọa, nhưng cái đói thứ hai là thuốc chữa bệnh vẫn còn.
Các hàng quán ở đây bán luôn cả thuốc chữa bệnh, những ca nặng thì phải chở xuồng ra huyện, tỉnh. Còn cái đói về thông báo chẳng biết khắc phục thế nào? Lâu dần người dân thành quen, không cần nhu cầu thông tin, họ chẳng hề quan hoài chuyện gì ngoài chuyện ngày hai bữa ăn.
Thằng em tôi đã mười lăm tuổi, hôm mới rồi lần đầu tiên được tham quan xem khu công nghiệp khí – điện – đạm, chỉ cách nhà 15 km, nhìn thấy nhà máy, cần cẩu, công nhân lắp máy rộn rịch nó ngỡ ngàng, “đúng là đứa ở rừng ra”. Thấy cây cầu xi-măng bắc qua sông, nó đứng vào giữa nhún nhún rồi nói: “Anh Hai à, sao người xứ mình không học cách làm cầu, làm đường như ở đây mà cứ phải leo cầu khỉ, lội đồng chi cho cực?”…
Có thể chấm phá đôi nét về làng quê miền Tây: dưới những rừng tràm, rặng lam chiều. Phía sông xa một dáng người lả lướt chèo xuồng…
Hình ảnh đó đã ghi đậm trong tình cảm của người đồng bằng dù đi đến chân trời, chóp mũi vẫn nhớ về quê hương. Tôi đã từng được bơi trong ký ức dịu dàng đó. Gió lướt nhẹ trên rừng dừa nước, nắng chiếu qua kẽ lá dệt gấm mặt nước sông.
Tiếng bìm bịp dội rền rền con nước lớn. Trên đồng xa, chiều về ráng mây óng tím một góc trời. Nhìn về rừng tràm, rặng dừa nước ven sông, tôi như mơ trong bao suy tưởng và nhận ra chính nó, những dòng sông chảy lờ lững soi bóng những rừng tràm, rặng dừa, đã làm nên bản sắc rất riêng cho đồng bằng Nam Bộ.
Ðám cưới của cô cháu gái một anh bạn mà tôi được dự thật khác xa với đám cưới thị thành. Những mâm cỗ được bày ngay dưới rặng dừa nước ven sông, cho tiện xuồng tấp bến.
Có thể nói những người đến dự không câu nệ cả từ cách ăn mặc cho đến cách nói năng. tất thảy đều là bà con chú bác bốn bên nội ngoại, chồng chéo họ hàng.
Lúc đầu đám cưới còn có lễ thức, cô dâu chú rể làm lễ cúng gia tiên, lễ nhận quà mừng của hai bên bác mẹ, bạn bè, nghe lời khuyên bảo của người lớn, nhưng chỉ sau vài chầu rượu là đám cưới trở thành một cuộc liên hoan thăm hỏi bạn bè, chuyện xóm ấp, cấy lúa, trồng rau, nhớ về những kỷ niệm bạn bè, lối cũ… Bàn ăn cứ ăn, chỗ đàn hát cứ đàn hát.
Người già, người trẻ đều đàn, đều hát: Vọng cổ, tân nhạc, tân cổ giao duyên… đan quyện suốt sáng thâu đêm: “bao nhiêu tình là bao nhiêu ly, sao tôi thấy cốc ly vẫn đầy…”. Ðêm tân hôn mà chú rể “say ngoắc cần câu” “ngủ giản dị” luôn cùng bạn bè ngay trên “sân bãi” bỏ trống cả phòng loan.
Tôi không say rượu đám cưới, nhưng vì lâu ngày về quê nên thao thức suốt đêm.
Mái nhà lá đơn sơ này đã che nắng, che mưa và đã ấp ủ tôi suốt từ tuổi nhỏ. Tôi nhớ đến xót xa hình ảnh má tôi lặn ngụp cấy lúa giữa đồng sâu đến đỏ đèn, trong những chiều mưa tối đất, trên lưng chỉ một tấm li chằm che nắng, che mưa…
Ngày bé, vào những buổi trưa hè, lũ chúng tôi xúm quanh nồi bánh của má.
Chiếc bánh lá được làm bằng bột gạo, nắn mỏng rớt theo chiều ngang, chiều dài của lá dừa nước, sau đó đem hấp chín rồi gỡ ra cho vào đĩa chan nước cốt dừa, nước mắm chua… Cái mùi lá dừa nước non quyện chặt trong vị ngọt của bột gạo, vị béo của nước cốt dừa cứ đeo bám theo tôi cả thế cục.
Giờ dù đã trưởng thành, đất nước lại đang thay da đổi thịt, tôi thường được ngồi trước những bàn tiệc cao lương mĩ vị.
Vậy mà ăn rồi thì tiềm thức xua đi, còn những món ăn hồi bé nơi “đất nghèo” như chiếc bánh lá của má tôi vẫn lưu giữ không thể nào quên được. Bà cô tôi năm nay mới ngoài 75 tuổi, nhà có một rặng dừa nước ven sông đã rất lâu đời của tổ tiên để lại.
Ðầu năm, người con trai từ đô thị về dỡ bỏ căn nhà lá cũ, cất cho cô tôi căn nhà tường khang trang lợp tôn lạnh đàng hoàng.
Em tôi vô tình nói với mẹ: “Ðám lá hiện thời không còn để làm gì, đốn luôn đi “giải phóng mặt sông” cho mọi người nhìn thấy ngôi nhà mới…”. Cô tôi không nói, không rằng, sai luôn thằng Út cất một căn nhà lá nhỏ trên sông, rồi liền bà ra đó ở. Ai hỏi thì cô tôi bảo: “Quen rồi, ở nhà lá bên nước sông cho nó mát”.
Tôi biết cô tôi giận thằng con trai nên nói cho qua lề, chứ tôn lạnh bây giờ cũng mát lắm, vấn đề là người già hay vương vít, hoài niệm…
Mà nào chỉ có người già, mỗi lần về quê, chiều chiều ra ngồi trên bến sông, nhìn qua rặng lá dừa nước, tôi lại bỗng thấy thấp thoáng thế cuộc lam lũ của má tôi, thấy tuổi thơ nhọc nhằn của mình và nhận ra cái ý nghĩa lớn lao của những danh từ ta thường vẫn gọi là nơi “chôn nhau cắt rốn”…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét