23 thg 2, 2015

“Trần Văn Thành” và cuộc khởi nghĩa Láng Linh – Bảy Thưa






Ca dao xưa ở Nam bộ lưu truyền câu:

“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai!”

Nhiều người cho rằng, “người áo trắng” chính là thủ lĩnh Trần Văn Thành và các nghĩa binh của ông. “Khăn điều” và “áo trắng” là trang phục biểu tượng của những giáo đồ Bửu Sơn Kỳ Hương (BSKH) thuộc lực lượng “Binh Gia Nghị”. tục truyền rằng bà Trần Thị Thạnh – phu nhân của ông Trần Văn Thành – là tác giả của ca dao nầy! Binh Gia Nghị ban đầu là tên gọi của lực lượng quân triều đình do Chánh Quản cơ Trần Văn Thành, một tướng của nhà Nguyễn đóng binh ở vùng biên giới Tây Nam thuộc “Châu Đốc tân cương”(An Giang) chỉ huy vào thời đầu các vua nhà Nguyễn (Thiệu Trị, Tự Đức). Về sau, Trần Văn Thành không thần phục triều đình Huế và quân xâm lược Pháp, đã tổ chức một số lính tráng dưới quyền, một số giáo đồ đạo BSKH cùng với quần chúng. # yêu nước ở vùng Châu Đốc, An Giang thành lập một đội quân cũng lấy tên là “Binh Gia Nghị”. Trong một bằng phong của triều đình Huế cho Nguyễn Kế Trung làm chức Chánh Đề đốc, có câu liên tưởng như sau: “An Giang tỉnh, Gia nghị cơ, Trần Vạn Thành cai quản hợp đồng”. Như vậy có thể suy ra Gia Nghị là phiên hiệu của một đội quân ở An Giang thời Nguyễn, giống như “Gia Trung cơ”, “Gia Thuận cơ” ở  Kinh giảng Chùa Nhà Láng của đạo BSKH có đoạn: “Trong cơ vệ, mộ quân đã đủ/ Ông trở về chịu chức Quản cơ/ Đạo nghĩa binh khai trống phất cờ/ Lấy danh nghĩa Binh cơ Gia Nghị”.

Chánh Quản cơ Trần Văn Thành sinh năm 1818 trong một gia đình dân cày tại ấp Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc (nay là xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, Trần Văn Thành tham gia quân đội nhà Nguyễn. Do có sức khỏe, giỏi võ nghệ, biết chữ nghĩa nên ông được cử làm suất đội (chỉ huy 50 lính), từng đóng quân bảo hộ ở Chân Lạp. Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đồn trú ở Châu Đốc để giữ giàng biên cương phía Tây Nam.

Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên hãm thành Châu Đốc. Tổng đốc Phan Khắc Thận vấy, An Giang thất thủ (22-6-1867). Sau biến cố lịch sử ấy, Trần Văn Thành tự tổ chức dân quân đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp, song song mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1868, thủ lĩnh Nguyễn Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, sau bị quân Pháp phản công. Trần Văn Thành cho dân quân Núi Sập đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (huyện Thoại Sơn) để ngăn trở tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá. Nguyễn Trung Trực thất trận phải rút quân về Ba Trại, Hòn Chông nay thuộc Kiên Lương (Kiên Giang), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng vào Láng Linh mưu sự lâu dài.

Láng Linh là một cánh đồng trũng phèn rộng minh mông dài khoảng 20km, rộng chừng 10km. Theo dân gian “láng” là vùng đất trũng, rộng thường xuyên ngập nước; “linh” là cá linh. Cánh đồng nầy mùa nước nổi cá linh từ Biển Hồ về nhiều thiếu gì. Thời nhà Nguyễn, vùng đất này thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang hiện tại nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú thuộc huyện Châu Phú (An Giang). Bảy Thưa là khu trọng tâm của cánh đồng nầy. Về tên Bảy Thưa theo nhiều tư liệu diễn đạt thì đây là một nơi có loại cây rừng mọc ở vùng đất thấp ngập nước, chịu được mùa nước nổi, cội to, lá nhỏ, hơi dài còn có tên là cây trát thưa hay cát thưa (dân gian gọi tắt là “thưa”). bây chừ ở Láng Linh còn rất ít loại cây này. Tại di tích dinh Sơn Trung (đồn Bảy Thưa) nằm bên kênh 16 thuộc xã Bình Phú, huyện Châu Phú (An Giang) chỉ còn lại vài cây.

Ca dao địa phương có câu:

Bãi bồi mọc những cát (hay trát) thưa/

Thương em đi sớm về trưa một mình.

Theo nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Nguyễn Hữu Hiệp thì tên cuộc khởi nghĩa viết là Bãi Thưa (theo nghĩa bãi đất mọc nhiều cây thưa) mới đúng. Do cách phát âm của người nông thôn miền Nam, mà tên Bãi Thưa lần hồi thành ra Bảy Thưa.

Sau các thất bại của phong trào Cần Vương ở Nam kỳ do Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương đề xướng. Trần Văn Thành rút quân về vùng Bảy Thưa giữa cánh đồng Láng Linh bao la đầm lầy, lau sậy. Ông lập các đồn binh, xây dựng căn cứ và tổ chức sinh sản với mục đích kháng chiến lâu dài. Bảy Thưa đã trở thành một chiến khu có tổ chức. cứ Bảy Thưa có địa hình giống như căn cứ Đồng Tháp Mười của Thiên Hộ Võ Duy Dương, nhưng quy mô nhỏ hơn. Binh Gia Nghị đã lợi dụng địa hình hiểm trở của vùng trũng Láng Linh hoạt động chống Pháp suốt từ năm 1867-1873, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại và bất an.

Người ta không biết chính xác quân số thực của Binh Gia Nghị là bao nhiêu. Nhưng theo binh chế (biên chế) quân đội thời ấy thì 5 người vào 1 ngũ, 2 ngũ vào một thập (10 người), 5 thập thành một đội (50 người), 10 đội thành một cơ (500 người). Quản cơ là chức quan hàng đệ tứ phẩm của quân đội nhà Nguyễn quản từ 500 đến 600 quân. Vệ cũng có số quân tương đương với cơ nhưng người chỉ huy có hàm cao hơn một bậc – Lãnh binh hay Chưởng vệ quản lí vệ có hàm đệ tam phẩm. Binh Gia Nghị có xưởng đúc, chế tác vũ khí thủ công ở Láng Linh nhưng kỹ thuật hãy còn thô sơ. Các chiến binh được trang bị gọn nhẹ với đao, kiếm, dao găm, súng điểu thương, tác chiến theo lối du kích, đánh úp. nghĩa binh Binh Gia Nghị lấy tinh thần yêu nước, sự anh dũng, dựa vào lực lượng dân cày, tôn giáo để đánh địch. Dù bị vây khốn, có nguy cơ bị tiêu diệt nhưng quân Binh Gia Nghị không bao giờ dính dáng. Các lãnh đạo của binh Gia Nghị như Trần Văn Thành cùng với vợ là bà Trần Thị Thạnh, các con là Trần Thị Hè, Trần Thị Nên, Trần Văn Nhu, Trần Văn Chái; các cộng sự thân tín như Cai Vàng, Đội Văn, Đội Sang, Đội Nhiều, Hiệp Quản Tú, thơ lại Khê… là những đội viên chống Pháp kiên cường, hy sinh dũng mãnh. Riêng “cậu Út” Trần Văn Chái đã nghe theo lời mẹ tử tiết trong ngục Châu Đốc, lúc mới vừa 18 tuổi! Binh Gia Nghị đã tổ chức, tham gia thành công việc sát hại tên chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti ở Vũng Liêm (Vĩnh Long). Bọn thực dân Pháp có lúc treo giải thưởng 1.000 quan cho ai bắt nộp được “Tổng binh Thành, gốc ở Thất Sơn”. Chiến khu Bảy Thưa là cái gai nhọn chọc vào mắt bọn thực dân Pháp, là mối lo làm chúng ăn ngủ không yên. Từ Bảy Thưa, Binh Gia Nghị đã tổ chức nhiều cuộc đánh phá, quấy nhiễu nhiều nơi ở An Giang và các vùng lân cận.

* * *

Từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (Châu Phú), và thị uy đồn Nghệ. Quân giặc nã đại bác vào trước và bắt dân dọn đường. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Binh Gia Nghị lui dần. Ngày 19 tháng 3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú). Bọn chúng chiếm được đồn. Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đậu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang), cho quân dùng xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng để tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc. Biết mình đang bị bao vây, nguy nan nhưng Trần Văn Thành và nghĩa binh vẫn cương quyết đương đầu.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng Trung doanh (đồn Bảy Thưa). Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm1873 thuật: Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa quân chống chọi. nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và hò reo để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông tương trợ cho ông bắn”… dù rằng quân Gia Nghị đã chống trả quyết liệt và kiêu dũng nhưng trước hỏa lực áp đảo của giặc Pháp, cuối cùng Hưng Trung Doanh cũng bị thất thủ. Quân Pháp cay cú nổi lửa thiêu hủy Bảy Thưa rồi mang xác ông Thành và Đội Văn về bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị oai dân chúng. Cũng có tư liệu nói rằng Trần Văn Thành không tử trận – “Sau khi Hưng Trung doanh bị giặc chiếm, ông thoái lui sâu vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 năm 1873. Chánh Quản Cơ Trần Văn Thành là một chí sĩ yêu nước, một trong những thủ lĩnh tiêu biểu của phong trào kháng Pháp ở Tây Nam bộ cận cuối thế kỷ 19. Trần Văn Thành dứt khoát không nhu nhược thỏa hiệp với giặc Pháp như triều đình, dù nhiều lần được chiêu dụ, gọi hàng. thiển nghĩ những cơ quan chức trách và các nhà văn hóa, các sử gia cần có những cuộc hội thảo mới, trên tinh thần khách quan và khoa học để nghiên cứu, đánh giá cho cân xứng tầm quan yếu, giá trị lịch sử của cuộc khởi nghĩa Láng Linh- Bảy Thưa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét