Xem thêm: Du lịch Phú Yên
Miền
Tây Nam Bộ có diện tích mặt nước trên đồng ruộng, diện tích mặt nước trên sông,
rạch, ao, hồ, vuông, xẻo… khá cao. Kinh rạch dằng dịt không chỉ là hệ thống
giao thông huyết quản đường thủy nối liền tỉnh đến huyện, huyện về xã mà còn tỏa
đi các ấp, địa bàn dân cư và trong lòng nó chính là nơi cung cấp nguồn lợi thủy
sản như: cá, tôm, cua, … vùng nước ngọt, nước chè hai và nhiễm mặn.
Đây là nguồn thực phẩm tự nhiên, sạch an toàn và ngon. Thủy sản ở miền Tây
sinh sống ở ba vùng nước: nước ngọt, nước chè hai và nước mặn thành thử có hàng
trăm loại cá và hàng chục loại tôm, cua, ếch, nhái…
Mùa nào, cá, tôm, cua, mùa nấy. Mùa mưa thì ếch nhái, cá lóc, cá rô mề, cá
trê vàng, … mùa khô thì cá sặc, tôm, cua, tép, …riêng cá bống tượng, bống trứng…
và vộp, ốc, lươn, rùa, trăn, rắn … thì mùa nào cũng có. Nước lên mang theo
tôm, cá,… vào đồng, nước tràn trề cá cua thi nhau vào đẻ con sinh cháu. Sau đó
nước đồng lại cạn tôm, cá trở ra sông …và cứ theo chu kỳ xoay vòng như thế.
Người dân chỉ việc mang lộp, nò, lờ, nôm, … bắt về con to để ăn, con nhỏ mang
thả vào vuông, đìa quanh nhà để nuôi làm nguồn dự trữ. Thế là, nhà nào nhà đó đỏ
lửa kho, nấu, chiên, luộc …hương thơm ngào ngạt cả vùng.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ sưu tầm và giới thiệu các vật dụng
dùng để bắt các loại thủy hải sản miệt đồng, nó gắn liền với những người dân quê
sống ven kênh rạch mà thôi. Phần dụng cụ đánh bắt thủy hải sản biển sẽ được đề
cập đến ở một dịp khác.
1. Bắt bằng tay không
1.1. Bắt ếch, bắt nhái
Cứ tháng cuối tháng ba đầu tháng tư âm lịch khi những trận mưa đầu mùa đổ
xuống ếch nhái kêu ran ngoài đồng trống, thế là chập choạng tối tay cầm lồng đèn
chong cóc đốt bằng dầu lửa, tay cầm cái bao, cái rộng (làm bằng tre) ra đồng soi
nhái. Ếch nhái gặp mưa, chúng kêu vang để “hò hẹn” bạn tình. Gặp phải ánh đèn nó
đành nằm yên chịu trận! Người đi bắt cứ thế lượm bỏ vào bao! Gặp phải ếch nhái
“bắt cặp” chộp một tay được liền những hai con! Cứ thế bỏ vào bao mang về! Có
khi đi bắt nhái cũng gặp rắn nước, rắn hổ (loài rắn cực độc) sẵn cây, chĩa trong
tay họ sẵn sàng hạ “con vật nguy hiểm” kia luôn, một công đôi ba nguồn lợi là
vậy!
1.2. Lượm ốc, bắt cua đồng, mò cá.
Ốc gạo trên đồng không ngập nước, ven bờ mương vườn nhiều vô thiên lủng, thế
là họ cứ mặc nhiên cầm thao, cầm rổ đi lượm về cải thiện bữa ăn. Ốc có thể luộc
với lá ổi, chấm với cơm mẻ, trẻ em thì bỏ vô lò than hồng nướng vì ốc nướng ăn
ngọt và thơm hơn. Cua đồng rất có hại cho lúa, nên khi gặp người ta có thể bắt
bỏ! Không bỏ thì mang về rang, nướng ăn chơi cho vui miệng.
Lượm ốc, lượm cua chỉ bằng tay không là đủ không cần thêm một vật dụng nào
khác, trừ cái vật để đựng chúng!
Mò cá: khi nước dưới sông, dưới rạch ròng cạn lòi bãi, người ta lội
xuống dùng tay mò cặp mé lá dừa nước, trong các bụp bè (thân cây lá dừa nước –
loại lá mọc rất nhiều ở miệt này, dùng để lợp nhà!) thường nhất là cá thác lác,
cá trê, tôm càng xanh, … ẩn thân chờ nước lớn, người ta cứ thế tóm lấy cho vào
“rộng”.
1.3. Bắt cá lên, cá cạn
Cá lên đồng sau khi những trận mưa lớn đầu mùa đổ xuống. Theo quán tính tự
nhiên, cá rô, cá lóc … lên ruộng để sinh con, đẻ cháu. Con người biết được phản
xạ này của cá. Thế là ngay khi cơn mưa đang ập xuống, người ta ra động, lựa chỗ
bờ đập, rãnh mương, đường nước dẫn lên đồng, cá mẹ, cá cha lũ lượt vượt bờ đất
rộng để tìm nơi có nước! Thế là chúng trở nên mồi ngon cho con người miệt đất
này.
Khi đồng ruộng bắt đầu cạn nước, gió chướng thổi mạnh những mưa rút cục đã
dứt, lúc này khoảng tháng mười, tháng mười một, (ngày trước canh tác mỗi năm chỉ
một vụ, cốt yếu là dùng nước mưa trời, chứ không dùng máy bơm, lưu nước quanh
năm trên đồng như hiện giờ) cá bắt đầu tìm đường xuống. Người ta có thể đào các
rãnh dẫn chúng vào các đìa nước nằm giáp giữa vườn và ruộng, có thể làm hầm để
cho cá nhảy vào. Và rốt cục là những con cá non, cá nhỏ bị kẹt lại, cứ thế,
người ta dùng tay mò dưới các đường nước sâu (hiện thời đã lệt sệt bùn) mà tóm
lấy chúng. Mùi bùn thấm đượm hương vị quê nhà là ở đấy!
1.4. Đào hầm
Hầm là một khoảng đất được khoét rộng, giữa các bờ mẫu (bờ ranh giữa các thửa
ruộng). Cá sẽ tìm đường “xuống” chúng nhảy từ ruộng nước cạn, sang ruộng nước
sâu hơn, thế là rơi vào hầm. Cá lóc, cá rô, lúc nhúc trong ấy, chờ đến sáng,
“chủ hầm” đến bắt về!
2. Bắt bằng cách dụng cụ tự chế
2.1. Rổ, sà nel: xúc tép, chạy cù
Tép ở đây là loại tép trấu (có nơi gọi là tép mồng, tép càng, tép đất),
thường cư trú ở dưới rễ ô rô, nơi lá mái dầm mọc nhiều ven sông, rạch. Khi trái
gió trở mùa, không tìm được thức ăn, người ta xuống sông, mang theo rổ lớn (gọi
là rổ xúc) hoặc sà nel (loại nông cụ của đồng bào Khmer đươn bằng trúc) để xúc
tép. Tép xúc được mang về lặt sạch râu, sạch càng rồi rang muối, kho mặn hoặc
sang hơn thì lăn bột chiên ăn với rau rừng và nước mắm đồng dầm bần, hay chùm
giuộc cho xong bữa!
Chạy cù xúc cá bãi trầu, lòng tong: na ná như xúc tép, nhưng cá bãi trầu, cá
lòng tong, thường sống trên ao, đìa, cạn nước, hoặc các chùm năng, lát mọc dày
nơi ruộng lung (ruộng sâu, nước ngập ngang bụng người). Người có kinh nghiệm
chạy xoay vòng cho cá gom vào bụi cỏ, gốc năng, lát. Lúc ấy, họ nhanh tay xúc
lấy. Cá bãi chầu nhất cỡ ngón tay cái) cá sặc, cá lòng tong, hủn hỉn, … được
mang về kho với nước cốt dừa, chấm rau choại, rau ráng luộc ăn với cơm.
2.2. Tát đìa
Như trên đã nói, khi trời bắt đầu trở chướng, cá trên đồng dợm rút xuống
sông, thường được các bác dân cày “dẫn” vào đìa, vào mương vườn. Nơi ấy, nước
sâu lại được chất chà kín đáo là nơi ngụ cư lý tưởng cho cá, tôm. Gần tết, người
ta tổ chức tát đìa bắt cá. Đìa lớn thì ba bốn người dùng gàu đươn bằng lá dừa
nước, hoặc bằng tre tát cạn. (Gàu có loại cho một người tát, có loại buộc dây
dùng cho hai người tát, gọi là gàu vai). Đìa cạn nước, cá nằm phơi mình trên mặt
đất bùn, người ta chỉ việc bắt cá bỏ vào thùng, vào rộng, … mang về. Sau đó, chủ
chia cá cho những anh em để trả công người đến tát giúp mình.
2.3. Chất chà
Nơi lòng sông, con rạch, người có kinh nghiệm sẽ phán đoán được thuận dòng
nước ở đâu cá sẽ ngụ nhiều. Thế là chà (cây có nhiều nhánh được đốn rồi phơi cho
rụng hết lá) trâm bầu, hay gốc trúc, tre, … được đem chất thành đống dưới sông
(nơi đã được chọn). Ở trên, người ta còn phủ thêm lá dừa nước, hoặc bỏ vào “đống
chà” ít lục bình (bèo tây) để dụ cá “đến” ở. Thường chà được chất trước tết 5 –
7 tháng. Gần tết nguyên đán, người ta sẽ dở chà ăn tết! Ngày dở chà, cữ chục
người dùng đăng (bện bằng sống cây dừa nước, phơi khô chẻ dẹp và vót sạch, dây
bện cũng chính bằng dây bụp dừa – phần dưới của thân cây dừa nước, phần này
thường ngập dưới nước, được xắn về chẻ nhỏ, phơi khôi làm dây buộc rất chắc!)
bao quanh. Bao xong, người ta vào giữa đống chà vứt chà ra ngoài. Chà vứt hết,
người ta dời đăng từ từ vào và dùng tay, vợt để thu sản phẩm. Những đống chà
lớn, trúng vụ có khi lên cả mấy trăm ký cá, vài chục ký tôm là chuyện
thường!
2.4. Đăng mương
Nhưng con lạch, con mương dẫn nước sông vào ruộng, vào vườn, thường có vàm
tiếp giáp với sông, trên ngọn cạn và cùng (tức không còn đường nước đi nữa!).
Sáng nước lớn, nước ngập mênh mông, người ta dùng cám rang rải khắp mặt nước để
nhử cá vào. Sau đó dùng đăng (loại đăng dùng để dở chà như đã nói) đăng chặn
ngang vàm mương. Nước ròng rút dần đến trưa, dòng mương, rạch ấy đã cạn. Người
ta đắp đập ngang, tác khô nước mà bắt cá, tép.
2.5. Chĩa đâm rắn, lươn, cá
Để có “vũ khí” hộ thân khi ra đồng, ra vườn, người ta thường mang theo mình
cây … chĩa. Chĩa có nhiều loại, có chĩa một mũi, chĩa hai, ba, bốn, năm mũi, …
Mũi chĩa là bằng thanh sắt nhỏ mài nhọn, trên uốn lại để tra vào cán trúc, cán
tre. Đó là loại chĩa đâm cá, phóng ếch, hay hạ sát rắn, … Còn chĩa đâm lươn thì
chỉ có hai nhạnh ngắn và bén. Người đi đâm lươn thường dùng chĩa xom xuống những
nơi đất mềm, có rơm rạ thúi mục, môi trường mà lươn ưa thích sống. Đâm phải
lươn, thì giữ chặt tay chĩa, dùng xà ben, dá, đào đất lên để bắt lấy.
2.6. Nôm
Nôm là vật dụng làm bằng các thanh tre vót nhẵn, đầu nhọn hướng xuống phần
miệng. Trên túm lại cỡ bằng cái tô, dưới miệng lớn bằng miệng thúng nhỏ. Tính từ
miệng lên khoảng độ tấc tay người ta dùng một niềng tre hoặc niềng sắt để một
mực các thanh. Khi nôm, miệng nôm úp xuống nước. Những vũng nước nhỏ nghi có cá,
người ta dùng nôm úp chúng để bắt …
2.7. Ống trúm: Là một ống tre già được thông mắt, mắt cuối cùng được
chừa lại. Miệng trúm có hom, hom đươn bằng các thanh tre vót nhỏ, bện bằng dây
lạt cà bắp (cây lá dừa non sông, chưa thành tàu lá), mồi nhử thường là cá, cua
chết để hôi, đặt trúm nơi bưng biền lắm lát, nhiều sậy. Lươn thích ăn thịt cá
chết, tìm đến chun vào trúm và kẹt luôn trong đó.
2.8. Câu: Thường làm bằng trúc, tre. Câu có nhiều loại, tùy theo từng
loại cá, mồi và cách cắm cũng khác nhau. Xin giới thiệu một số loại câu thường
gặp trong dân gian:
- Câu nhấp: Cần câu là một câu lục bình (họ cùng với tre, trúc) lớn,
già và dài. Nhợ câu có đến 5 – 7 thước. Lưỡi câu dùng loại lưỡi lớn bằng inox.
Mồi là nhái hoặc thạch sùng. Người câu quăng nhợ ra xa, rồi dùng sức kéo lưỡi
lướt trên mặt đìa, ao. Cá lóc lớn, (có khi là ếch) thấy mồi “phóng lên” đớp. Thế
là … mắc câu.
- Câu thọt: Nhỏ hơn câu nhấp một ít. Cần câu chỉ độ 2 – 3 thước. Nhợ
câu cũng ngắn và lưỡi câu cũng nhỏ hơn. Cậu thọt thường được câu ở các hóc lá
dừa nước, ven vàm kênh, rạch, chỗ nước lặng … Cách câu cũng Tương tự như câu
nhấp. Cá mà câu thọt hướng tới là cá lóc nhỏ, cá rô, …
- Câu cá rô tôm tít: Cần câu là cây trúc nhỏ. Nhợ và lưỡi cũng rất
nhỏ. Mồi câu là trứng kiến lửa (loại kiến có rất nhiều ở vùng lá dừa nước, lau
sậy mọc dằng dịt này!). Người đi câu phải chịu khó đi thọt kiến vàng. Ổ kiến
được chọt tung ra, bên dưới có rổ nhỏ để hứng trứng kiến. Khi lúa ngoài đồng mơn
mởn xanh, cũng là lúc cá rô con (gọi là cá rô tom tít) đã biết ăn mồi. Mồi trứng
kiến bỏ xuống, chúng thi nhau đớp. Hết bầy này, người đi câu tìm chỗ lúa trống
câu tiếp bầy khác …
- Câu cắm: Bờ mẫu ruộng còn được dùng để cắm câu. Câu cắm vót bằng
tre, mỗi cần câu dài non thước tây. Lưỡi nhỏ tóm bằng nhợ dây chỉ, dây gân. Nếu
cắm mồi trùn cơm (loại trùn) trộn cám thường được cá rô, cá lóc. Cắm mồi nhái
bén thì cá lóc hay ăn. Nếu cắm cá hẻn thì dùng mồi ong non hay trứng kiến. Cũng
loại câu cắm nhưng không cắm trên đồng, trên bờ mương, ao vườn như cách cắm cá
lóc, cá rô đã kể. Câu cắm dưới sông để tìm cá chốt, cá bống. Cần cầu dài độ 2
mét bằng trúc hoặc sậy. Nhợ và lưỡi câu buộc cách mặt đất chừng 3 – 4 tấc. Mồi
câu là tép mồng, tép trấu. Câu cắm nơi nước chảy mạnh. Khi cá ăn, câu động,
người ta cứ thế mà tóm kẻ tham mồi!
- Câu kiều: Đây là loại câu thả. Cần câu là một đoạn tre, trúc, sậy
ngắn chừng 5 – 7 tấc. Ở giữa có nhợ và lưỡi câu. Mồi thường là trùn, ốc. Thả câu
kiều để bắt các loài ăn “mồi chìm” như cá hẻn, cá chốt hay lươn…
- Câu giăng: Khác với câu cắm, câu kiều dùng cần bằng cây tre, trúc,
sậy. Câu giăng dùng một sợi dây chính để tóm nhiều nhợ và lưỡi vào đó. Câu giăng
ven kênh, rạch, mồi thường là trùn, tép. Cá ăn câu giăng thường là các chốt, cá
trê, cá bóng, … Có đều đặc biệt là cá sặc không bao giờ ăn câu, bởi miệng nó cấu
tạo nhỏ không có lưỡi câu nào vừa để câu được chúng.
- Câu tôm: Tôm càng ăn mồi chìm, mồi là những miếng sắn xắt thành
khúc. Miệng tôm không vừa lưỡi câu, nên khi tôm ăn, thấy nhợ động, người câu tôm
nhẹ nhõm cho xuồng đến gần rồi bất thần dùng nôm ụp xuống, sau đó mò bắt
chúng.
- Câu cua: Câu cua là một chiếc rổ đương bằng dây hoặc lưới. Mồi được
để vào trong rồi thả cho chìm xuống đáy xuống (xung quanh rổ lưới, người ta buộc
những cục gạch nhỏ tạo sức nặng). Trên mặt nước có miếng mốp để báo hiệu. Khi
cua bén mồi lao vào, người ta thấy động, đến vớt câu lên. Cua mắc lưới không ra
được và bị tóm gọn.
2.9. Savi
Đây là nông cụ rất đơn giản, được bện bằng dây cà bắp để bắt cá lóc. Vật bắt
cá này chỉ to hơn cườm tay người lớn, nó chỉ được thắt như các mắc lưới. Điều
độc đáo là người đặt sa vi phải có kinh nghiệm biết nơi nào có thể có cá lóc đi
qua. Họ đặt, cá vào rồi thì không cách nào “quay đầu” lại mà ra được. Cứ thế,
chỉ tóm đem về!
2.10. Lộp
Lộp làm bằng tre. Lộp đặt ở mương vườn hay hóc lá. Lộp có hai cái hôm: trước
và sau. Cá, rùa, cua, tôm vào nhưng không tìm được đường ra, vì bị hôm sau chặn
đường, cứ thế chủ đến “đổ lộp” mang về!
Nhưng nơi nước sâu, muốn bắt cá lớn, người ta dùng đăng ven để nhử cá vào.
Lộp lớn làm có ống hơi để cá vào cá lên thể không bị chết ngạt. Lộp nặng không
dỡ bằng tay nổi thì dùng cây và dây dừa quay lên, cách quay lộp như quay dây tời
kéo pháo vậy!
2.11. Nò
Thân hình ống, dựng đứng. Hom làm bằng tre chuốt dẹp. Ven đăng, đặt nò nơi có
nước chảy, ban đêm đốt đèn để dụ cá, tép. Tép bạc, cá bóng là sản vật thu được
từ nò.
2.12. Lờ
Lờ làm bằng ruột tre, cọng chuốt nhỏ. Lờ mảnh khảnh hơn lộp và nò nhiều lần
vì lờ chỉ để đặt các loại cá nhỏ như cá sặc, cá chốt mà thôi. Có loại lờ bốn hom
(đặt các bốn phía) có loại lờ hai hom. Gặp phải lươn rắn chun vào thì sức lờ
chịu không nổi!
2.13. Chài; Vó; Dớn; Đuôi chuột; Lưới, Sệp
Đây là những vật dụng đánh bắt bằng lưới. Cách cấu tạo mỗi loại có khác nhau,
nhưng cốt yếu là để bắt cá dưới sông và khi khoa học đã phát triển. Chài được
người vãi ra chụp lấy cá, tôm. Lưới thì giăng những nơi cá, rắn thường hỗ tương,
vó có loại đặt nhất mực, có loại cất lên, đặt xuống; Đuôi chuột bện bằng lưới,
ven đăng rồi đặt suốt ngày đêm; Sệp là lưới mắc vào hai thanh tre gác tréo rồi
dùng sức người đẩy. Vó, lưới, đuôi chuột, sệp, đều dùng lưới ít nhiều đã không
còn mang dấu ấn nguyên thủy dân gian như ngày xa xưa.
3. Nhận xét
Nhìn chung các vật dụng đánh bắt dân gian mà chúng tôi sưu tầm và giới thiệu
ở trên mang đậm nét của nền kinh tế tự túc tự cấp trong đời sống của người bình
dân. Nó đã không ít lần đi vào thơ ca:
Cá trong lờ lờ ngờ ngoắc ngoải
Cá ngoài lờ bươn chải chun vô.
hay:
Chồng mò, vợ lưới con câu
Chàng rể đổ lộp, con dâu ngồi nò.
Qua các dụng cụ đánh bắt dân gian dễ kiếm, dễ làm thậm chí là chỉ với hai bàn
tay không, thức ăn vẫn bảo đảm, điều đó chứng minh cho sự ấm no, phong phú về cá
tôm, …ở mảnh đất “lạ lùng, … con cá vùng cũng kinh” này.
hiện tại, khi kinh tế đã phát triển, sự hội nhập giao lưu đang diễn ra mạnh
mẽ thì các vật dụng đánh bắt dân gian cũng đã ít nhiều đổi thay, biến tướng theo
hướng hủy hoại, hủy diệt môi trường sống hàng trăm năm của đất nay. Đó đây,
chính quyền các cấp đã trưng thu, thiêu hủy các loại xuyệt điện để bắt cá, bắt
tôm hay xử phạt những người nỡ dùng vịt con câu nhử bắt cá lóc mẹ đang nuôi
con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét